Hội nghị Aquaculture America thảo luận nhiều giải pháp kiểm soát EMS


Hội nghị Aquaculture America diễn ra tại Seattle, Mỹ đã thảo luận về việc kiểm soát dịch bệnh EMS khi có một số giải pháp xóa bỏ dịch bệnh đang được thương mại hóa.

Ảnh minh họa: tepbac.com
Ảnh minh họa: tepbac.com

Một phương pháp quan trọng là bộ chẩn đoán nhanh PCR, sắp được công ty GeneReach Biotechnology Corp và phòng thí nghiệm của tiến sỹ Donald Lightner tại Đại học Arizona (UA) thương mại hóa trong tháng này. Công nghệ này có thể phát hiện tôm có bị nhiễm EMS hay không trong vòng 24h.

Trước đó, Lightner và các đồng sự của mình như Linda Nunan tại UA đã phát triển một số bộ chẩn đoán virút tôm và họ đã triển khai ý tưởng “tìm và diệt” làm giải pháp, chứ không phải là chữa bệnh cho tôm bằng kháng sinh.

Khi Nunan và Lightner đã hoàn thành việc thử nghiệm bộ chẩn đoán, chúng sẽ nhanh chóng được đưa ra thị trường vì sản phẩm này đang có nhu cầu lớn. Họ cho biết bộ chẩn đoán sẽ có mặt trên thị trường vào cuối tháng 2/2014.

Một hệ thống khác giúp kiểm soát dịch bệnh EMS là xử lý nước bằng ozone, do công ty Silver Bullet System (SBS) sản xuất, thường được sử dụng trong nông nghiệp và làm sạch tháp nước giải nhiệt. SBS đã hoàn tất việc thử nghiệm hệ thống này tại trại nuôi tôm Mêhicô, sau khi đã thành công trong phòng thí nghiệm .

Tháng 9, phòng thí nghiệm của Donald Lightner cho biết giải pháp của SBS đã giảm lượng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh và tăng tỉ lệ tôm sống sót lên 90%. Ông cho biết: "Đây là một giải pháp đầy hứa hẹn”.

Quy trình này sử dụng ozone, giúp tạo ra hàm lượng hydrogen peroxide thấp trong nước. Kết quả thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy điều này không gây hại cho tôm giống. Khi ứng dụng hệ thống này vào các bể tôm có chứa EMS, nó sẽ giúp loại bỏ gần như tất cả các vi khuẩn gây bệnh trong những trường hợp nhất định.

Trung tâm Nghiên cứu Liên bang về Dinh dưỡng và Phát triển ở Hermosillo, Mêhicô đã thử nghiệm hệ thống này tại một trại nuôi tôm của Sonora trong 47 ngày. Kết quả cho thấy tỷ lệ tôm sống sót đạt đến 93%  và lượng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus giảm đáng kể.

Ngoài ra, còn các kỹ thuật khác được thực hiện ở châu Á như kiểm soát độ pH, sử dụng tôm bố mẹ sạch bệnh và an toàn sinh học giúp tăng sản lượng tôm.

Tóm lại, những kết quả này cho thấy vệc kiểm soát EMS đang tiến triển nhờ nhiều phương pháp, mà dự kiến sẽ được áp dụng cho ngành tôm trong năm tới.

Seafoodnews/Vietfish.org